Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo 102/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về phòng, chống dịch COVID-19. Theo đó, tạm dừng cấp thị thực cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam trong khoảng thời gian 30 ngày bắt đầu từ 00 giờ ngày 18/3/2020.
Bên cạnh đó, từ 00h ngày 18/3/2020, các trường hợp được miễn thị thực hoặc có Giấy miễn thị thực cấp cho người gốc Việt và thân nhân, một số trường hợp đặc biệt khác (như chuyên gia, nhà quản lý doanh nghiệp, lao động tay nghề cao…) khi nhập cảnh phải có Giấy xác nhận không dương tính với vi rút gây COVID-19 do cơ quan có thẩm quyền nước sở tại cấp và Giấy này được Việt Nam chấp thuận. Các biện pháp nêu trên không áp dụng đối với người nhập cảnh vì mục đích ngoại giao, công vụ.
Ở huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, hơn 10 năm nay, có một dự án được ví như nguồn tiếp sức tin cậy, giúp hàng ngàn phụ nữ vượt khó, thoát nghèo, vững vàngứng phó với biến đổi khí hậu.
Những đồng vốn thoát nghèo
Trước đây, gia đình chị Trương Thị Phượng (sinh năm 1972) ngụ ởẤp Phú Thành, xã Phú Vang, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre sống dựa vào nguồn thu nhập từ mảnh vườn nhỏ trồng rau và số tiền công khiêm tốn từ việc làm thuê, làm mướn của hai vợ chồng. Dù siêng năng, cần mẫn lao động nhưng cuộc sống gia đình anh chị vẫn không tránh được cảnh “thiếu trước, hụt sau”. Hai con trúng tuyển Đại học, anh chị vừa mừng vừa lo. Mừng vì tương lai của con sẽ sáng sủa hơn cha mẹ, lo vì việc con thành sinh viên sẽ kéo theo chồng chất chi phí trong suốt 4 năm.
Bước ngoặt đến với gia đình chị Phượng vào năm 2015, khi chị trở thành thành viên Hội liên hiệp Phụ nữ xã Phú Vang và được tiếp cận với Dự án tín dụng tiết kiệm của Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) và các nhà tài trợ.
Với nguồn vốn được hỗ trợ, vợ chồng chị Phượng nhanh chóng lên kế hoạch thoát nghèo. Anh chị sử dụng một phần vốn để mua gà, vịt về nuôi, phần còn lại chị Phượng dùng để mở một tiệm tạp hóa nhỏ.
Chị Trương Thị Phượng bên tiệm tạp hóa được mở nhờ nguồn vốn hỗ trợ bởi Dự án của MCNV
Chị Phượng tâm sự: Thời gian đầu, do còn thiếu kinh nghiệm, việc chăn nuôi và buôn bán cũng gặp khó khăn. Nhưng nhờ tích cực tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật do hội phụ nữ phối hợp tổ chức, anh chị đã nhanh chóng nắm bắt được nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi cũng như kinh doanh. Số tiền lãi từ đây không chỉ là nguồn thu nhập ổn định trang trải cho đời sống gia đình, và dành dụm thêm để làm vốn quay vòng đầu tư, bên cạnh việc vay từ dự án.
Qua nhiều chu kỳ vay, qua tư vấn của cán bộ dự án và các chị em đi trước, chị Phượng đã mua thêm được 01 con bò cái, cho sinh sản thêm 02 con. Trừ hết chi phí chăn nuôi, gia đình có khoản thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi năm.
Việc chăn nuôi bò ít tốn thì giờ, nên cùng lúc, chồng chị Phượng có thời gian làm thêm bên ngoài. Với các công việc như phụ hồ, lưới cá, mỗi ngày anh có thể kiếm được hàng trăm nghìn đồng.
Sau 5 năm tham gia Dự án tiết kiệm tín dụng của huyện Bình Đại, vợ chồng chị Trương Thị Phượng đã quyết định làm đơn xin ra khỏi diện hộ nghèo. Từ chỗ “thiếu trước, hụt sau”, giờ đây anh chị đã xây được nền tảng kinh tế vững vàng, nuôi các con ăn học đến nơi đến chốn, có việc làm ổn định. Căn nhà lụp xụp ngày nào cũng được sửa sang lại kiên cố, tiện nghi.
Kinh tế ổn định, chị Phượng có thêm thời gian cho các sinh hoạt cộng đồng. Đặc biệt, chị luôn nhiệt tình chia sẻ kinh nghiệm làm ăn với bà con lối xóm, các hội viên phụ nữ, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn. Chị tâm sự:
“Một nắm khi đói bằng một gói khi no”, hơn ai hết, mình hiểu cái cuộc sống khổ, nghèo, thiếu thốn như thế nào, nên giờ giúp được ai điều gì là mình sẵn lòng giúp đỡ”.
Đi lên từ cảnh hàn vi, chị luôn ghi nhớ: Chính những đồng vốn và sự hỗ trợ của hội phụ nữ đã giúp chị “khởi nghiệp” và có được cuộc sống ổn định, no ấm như hôm nay…
Nước ngọt chống hạn
Những năm gần đây, Bến Tre phải đối mặt với những diễn biến phức tạp của xâm nhập mặn. Nguồn nước sinh hoạt do nhà máy nước cung cấp cho các đô thị trên địa bàn tỉnh cũng như hệ thống nhà máy của Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Bến Tre đã nhiễm mặn trên 2‰.
Hạn mặn đang diễn ra gay gắt ở tỉnh Bến Tre. Ảnh minh họa: TTXVN
Nằm trên cù lao An Hoá, bốn phía sông, biển bao quanh, huyện Bình Đại là địa bàn bị đe dọa bởi xâm nhập mặn, độ mặn cao, mức độ xâm nhập sâu. Người dân lao đao vì đồng chua mặn khó chăn nuôi, trồng trọt, nước ngọt cho sinh hoạt, sản xuất khan hiếm.
Trong “cuộc chiến” chống hạn mặn gắt gao đó, Bình Đại đã may mắn được tiếp sức bởi dự án Tín dụng tiết kiệm. Song song với hỗ trợ vốn vay sinh kế, Dự án đã tạo điều kiện thuận lợi giúp các hộ nghèo, cận nghèo và hộ khó khăn tiếp cận vốn vay để xây ống hồ, mua dụng cụ trữ nước mưa, nước ngọt phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất.
Tới nay, 954 hộ đã được Dự án hỗ trợ tự xây ống hồ trữ nước. Từ đầu năm đến nay, dự án tiếp tục hỗ trợ cho 149 hộ vay và đang tiếp tục được chị em hưởng ứng đông đảo.
Chị Nguyễn Thị Kim Oanh (ấp Tân Long, xã Thạnh Phước) cho biết: “Năm 2016, tôi đăng ký vay vốn từ Dự án 5 triệu đồng để xây 2 ống hồ chứa khoảng 4m3 nước; tiền vật tư, tiền thợ, xây ống hồ hết 6 triệu đồng…”
Chị cho biết, với 2 ống hồ nước mưa cả năm gia đình sử dụng không hết. Vào mùa nắng, nhà chị sử dụng thêm nước giếng nên dư nước mưa.
Chị Nguyễn Thị Kim Oanh bên ống hồ chứa nước của gia đình
Thấy được lợi ích lâu dài, năm 2018, chị tiếp tục vay thêm 5 triệu đồng từ Dự án, vận chuyển cát, đá, xi-măng về để xây thêm 2 ống hồ chứa khoảng 6 m3 nước, kinh phí khoảng 7 triệu đồng.
“Nhờ xây ống hồ chứa nước mà trong tình trạng nước mặn này gia đình tôi mới có nước sử dụng sinh hoạt, còn hiện tại nước máy đã mặn không thể nào sử dụng được…”, chị chia sẻ.
Chị Nguyễn Thị Phương Thảo (sinh năm 1985) ở ấp Vinh Tân, xã Vang Quới Đông cũng là một trong những người đã được vay vốn để tự xây dựng hệ thống trữ nước mưa, nước ngọt. Tổng thể tích trữ nước mưa mà chị đang sử dụng vào khoảng 6m3 nhỏ cho gia đình 3 người.
Chị Phương Thảo cho biết:
“Cũng do tình hình nước nhiễm mặn đều xảy ra hàng năm nên tôi xây ống hồ để chứa nước mưa hoặc nước ngọt để sinh hoạt hằng ngày. Vào năm 2016, khi biết Dự án có hỗ trợ nguồn vốn cho vay xây ống hồ, tôi làm hồ sơ đăng ký vay trong 24 tháng với mức vay là 5 triệu đồng để xây 2 ống hồ.”
Chị phấn khởi chia sẻ: “Xây được 2 ống hồ tôi rất vui, lợi ích lắm, không có ống hồ là giờ nhà tôi phải dùng nước măn như những năm trước, rồi sinh hoạt tắm rửa rất bất tiện. Sắp tới đây tôi dự định là sẽ tiếp tục vay vốn để làm thêm 2 cái ống hồ nữa do tình hình nước mặn kéo dài thì sợ sẽ không đủ nước…”
Dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại được MCNV và các nhà tài trợ triển khai từ năm 2009.
Đến nay dự án đã triển khai tại 11 xã và thị trấn, cung cấp nguồn tín dụng và các hỗ trợ hòa nhập kinh tế xã hội cho trên 5.000 phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương. Dự án hiện nay đã tự chủ về mặt tài chính và hoạt động theo cấp phép của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Bến Tre.
Trên cơ sở tín dụng vi mô, dự án không ngừng cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ cho người dân trong việc phát triển kinh tế gia đình, tăng cường hiểu biết và học hỏi, phòng tránh tác hại hạn mặn và hỗ trợ địa phương xây dựng Nông thôn mới.
15 nhóm trưởng và thành viên dự kiến của dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại (tỉnh Bến Tre) đã được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết về quản lý, điều hành và sinh hoạt nhóm thông qua lớp tập huấn diễn ra từ ngày 17-19/2.
Lớp tập huấn nhằm tạo điều kiện để các nhóm tiết kiệm và vay vốn được tiếp cận với những kiến thức cần thiết về lĩnh vực vốn vay, tiếp cận và quản lý tốt nguồn vốn, sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế tại địa phương.
Trong 03 ngày diễn ra tập huấn, các cán bộ dự án đã giúp các học viên nắm bắt được một số vấn đề chung về tín dụng, nhóm tín dụng; phát triển, quản lý và điều hành nhóm vay vốn, giới thiệu về hoạt động của dự án (mục đích hoạt động, đối tượng khách hàng, chính sách vay vốn, huy động tiết kiệm bắt buộc…); hướng dẫn về cách lập hồ sơ, lưu trữ hồ sơ và một số kỹ năng tại buổi đi thực tế trong quá trình vận hành và quản lý nguồn vốn của Dự án .
Dưới sự hướng dẫn của các cán bộ dự án tại địa bàn, 15 học viên đã có được những hiểu biết nền tảng về tín dụng, nhóm tín dụng cũng như việc phát triển và quản lý và điều hành nhóm vay vốn
Bên cạnh đó, các nhóm trưởng tham gia cũng được cán bộ chuyên trách giải đáp một số vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện công tác vay vốn tại cơ sở, cách nắm bắt thông tin vay vốn…
Với những kiến thức, kỹ năng được trang bị, sau khi hoàn thành lớp tập huấn, các học viên đã có thêm sự tự tin, sẵn sàng trong tiếp cận quản lý nguồn vốn của dự án, để giúp cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ khó khăn có điều kiện phát triển kinh tế tại địa phương.
“Thông qua lớp tập huấn, Ban quản lý mong muốn mỗi học viên sau này sẽ là một cộng tác viên đắc lực cho Ban quản lý dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại trong công tác vận hành và quản lý nguồn vốn thời gian tới”, bà Võ Thị Bé Hai – Phó Trưởng ban quản lý Dự án chia sẻ.
Dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại được MCNV và các nhà tài trợ triển khai từ năm 2009.
Đến nay dự án đã triển khai tại 11 xã và thị trấn, cung cấp nguồn tín dụng và các hỗ trợ hòa nhập kinh tế xã hội cho trên 5.000 phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương. Dự án hiện nay đã tự chủ về mặt tài chính và hoạt động theo cấp phép của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Bến Tre.
Trên cơ sở tín dụng vi mô, dự án không ngừng cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ cho người dân trong việc phát triển kinh tế gia đình, tăng cường hiểu biết và học hỏi, phòng tránh tác hại hạn mặn và hỗ trợ địa phương xây dựng Nông thôn mới.
Ngày Quốc tế về Người khuyết tật (ngày 03/12) do Chương trình Thế giới Hành động về Người khuyết tật khởi xướng và được Đại Hội đồng Liên hiệp quốc thông qua năm 1992. Ngày này được ra đời nhằm mục đích thúc đẩy sự hiểu biết về vấn đề khuyết tật và huy động hỗ trợ cho nhân phẩm, quyền và phúc lợi của người khuyết tật, nâng cao nhận thức của các chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong mọi cộng đồng về việc lồng ghép và tích hợp vần đề người khuyết tật trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa. Một trọng tâm chính của lễ kỷ niệm ngày Quốc tế về Người khuyết tật hằng năm là vận động chính sách để ban hành các luật lệ và chuẩn mực quốc tế và quốc gia liên quan đến người khuyết tật và quyền của người khuyết tật được tham gia bình đẳng vào mọi lĩnh vực trong phát triển xã hội. Mỗi năm Liên hiệp quốc sẽ công bố một chủ đề khác nhau cho ngày này.
Chủ đề của Ngày quốc tế
Người khuyết tật năm 2019 là“Thúc đẩy sự tham gia và lãnh đạo của người khuyết tật:
hành động vì Chương trình nghị sự phát triển đến năm 2030”. Chủ đề năm nay chú trọng vào tăng cường vị thế
của người khuyết tật vì sự phát triển hòa nhập, công bằng và bền vững như đã dự
kiến trong Chương trình nghị sự về Sự phát triển Bền vững đến năm 2030 trong đó
cam kết “không để ai bị bỏ lại phía sau” và nhận thức về khuyết tật như là một
chủ đề xuyên suốt trong quá trình thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững.
Hằng năm, MCNV phối hợp với các đối tác để tổ
chức các hoạt động kỷ niệm ngày 3/12 với tinh thần ủng hộ và hỗ trợ tối đa các
hoạt động thức đẩy quyền của người khuyết tật, thể hiện sự tôn trọng nhân phẩm
của người khuyết tật, tôn vinh đóng góp của người khuyết tật vào quá trình phát
triển của xã hội. /.
Trên thế giới, từ hàng trăm năm nay, hoạt động trị liệu (HĐTL) đã là một phần không thể thiếu trong phục hồi chức năng, giúp bệnh nhân tái hòa nhập cuộc sống trong cộng đồng và giảm thiểu tỉ lệ tàn tật.
Tuy nhiên, đến năm 2015, Việt Nam vẫn chưa có đào tạo HĐTL chuyên nghiệp. HĐTL mới chỉ có ở một số ít bệnh viện lớn, nhờ vào sự hỗ trợ của các sinh viên hoặc kỹ thuật viên nước ngoài. Bởi vậy, kết thúc quá trình điều trị tại bệnh viện, việc duy trì HĐTL cho bệnh nhân tại nhà còn rất hạn chế. Trong khi đó, đối với người khuyết tật, người sau tai nạn, tai biến…chỉ riêng những sinh hoạt thường nhật như vệ sinh cá nhân, ăn uống, di chuyển…đã là những thách thức không nhỏ.
Những hạt giống đầu tiên
Trước nhu cầu cấp thiết về HĐTL tại Việt Nam, năm 2015, Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) đã khởi xướng dự án Phát triển đào tạo HĐTL chuyên nghiệp, với sự tài trợ của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), thông qua tổ chức Humanity & Inclusion (HI).
Năm 2016, cùng 2 giảng viên Đại học Y Dược TP.HCM, các giảng viên của Đại học Kỹ thuật Y tế (ĐH KTYT) Hải Dương Nguyễn Khắc Tuấn, Nguyễn Thị Tuyết Ngân và Vũ Thị Loan đã trở thành những “hạt giống đầu tiên” trên con đường “ươm mầm” ngành HĐTL tại Việt Nam. Tháng 8 năm 2019, họ đã hoàn thành một phần lộ trình của mình, sau khi tốt nghiệp Cử nhân về HĐTL tại ĐH Tổng hợp Manipal (Ấn Độ), ngôi trường có bề dày hơn 50 năm kinh nghiệm trong đào tạo chuyên ngành này.
Trước khi quay trở lại ĐH Tổng hợp Manipal để hoàn thành chương trình Thạc sĩ, 3 giảng viên đang thực tập tại ĐH KTYT Hải Dương dưới sự hướng dẫn của chuyên gia HĐTL đến từ Hà Lan.
Trong sự kiện kỷ niệm Ngày HĐTL thế giới diễn ra trên giảng đường ĐH KTYT Hải Dương vào cuối tháng 10, các giảng viên đã góp phần khơi dậy niềm yêu thích, sự say mê với ngành HĐTL cho hàng trăm sinh viên, từ khái niệm cơ bản cho đến những khía cạnh chuyên sâu như can thiệp HĐTL trong lĩnh vực phục hồi chức năng, các bệnh tâm thần, bệnh lý nhi khoa, mô hình can thiệp nhóm…
Một giờ thực hành về HĐTL tại ĐH TH Manipal, Ấn Độ. Ảnh: NVCC
Những kiến thức được minh họa bằng những ví dụ từ kinh nghiệm thực tiễn của ba giảng viên trẻ trong thời gian học tập tại Ấn Độ đã đem đến cho sinh viên góc nhìn vừa mới mẻ vừa gần gũi về HĐTL. Điển hình như cách phát hiện mối rủi ro tại nhà, đảm bảo an toàn cho người bệnh; chỉnh sửa, thiết kế lại những đồ dùng hàng ngày như chiếc thìa để bệnh nhân có thể tự ăn mà không cần trợ giúp từ người nhà…
Phần thuyết trình đầy tự tin, lôi cuốn kèm theo những giải đáp thắc mắc của sinh viên một cách cụ thể đã cho thấy tâm huyết, sự đào sâu, ý thức tìm tòi trong học tập và nghiên cứu của các giảng viên trên bước đường đến với HĐTL.
Hành trình “nảy mầm”
Chị Nguyễn Thị Tuyết Ngân (thứ 2, từ trái sang) và các giảng viên, bạn học tại Ấn Độ. Ảnh: NVCC
Để có được sự tự tin, nền tảng kiến thức vững vàng về HĐTL như ngày hôm nay, ba giảng viên đã phải vượt qua không ít thử thách, đó là những bỡ ngỡ khi lần đầu sống xa nhà trong thời gian dài, việc làm quen với ngành học mới mẻ bằng ngoại ngữ, rào cản về ngôn ngữ, văn hóa ở nước ngoài.
Bên cạnh lòng quyết tâm, ý chí vươn lên mạnh mẽ và bền bỉ của bản thân thì sự thông cảm, hỗ trợ tận tâm của các giảng viên, bạn bè Ấn Độ đã giúp họ vượt qua những ngày “vạn sự khởi đầu nan” ấy.
“Trong những tiết học, các thầy cô giáo thường cố gắng nói chậm hơn, để sinh viên quốc tế như chúng tôi bắt kịp bài giảng. Bất kể khi nào chúng tôi có câu hỏi, các thầy cô đều nhiệt tình giải đáp. Biết chúng tôi mới nhập học còn nhiều bỡ ngỡ, các thầy cô còn lồng ghép những câu chuyện vui vào giờ giảng, tạo bầu không khí thoải mái, thư giãn. Trong những bài tập như viết bệnh án, các bạn học, thầy cô cũng tỉ mỉ giúp sửa chữa những phần làm chưa tốt, giúp sinh viên tiến bộ cả về mặt ngôn ngữ lẫn kiến thức chuyên ngành”, giảng viên Nguyễn Thị Tuyết Ngân xúc động nhớ lại.
Không chỉ quan tâm tới sinh viên trong những giờ giảng trên lớp, các giảng viên ĐH Tổng hợp Manipal còn tận tình chăm lo tới đời sống của những bạn trẻ đến từ Việt Nam.
“Những ngày đầu tiên khi chúng tôi mới sang, các thầy cô đã không ngại dành nguyên một ngày để lặn lội dẫn chúng tôi đi tìm nhà trọ phù hợp”, giảng viên Nguyễn Khắc Tuấn kể.
(Từ trái qua) Giảng viên Nguyễn Khắc Tuấn, Vũ Thị Loan và các bạn học. Ảnh: NVCC
Không chỉ nhận được sự hỗ trợ của thầy cô, bè bạn Ấn Độ, hành trình 3 năm học tập của ba giảng viên trẻ còn được đồng hành bởi MCNV, đơn vị triển khai dự án.
“Chúng tôi luôn nhận được sự tiếp sức của các cán bộ MCNV, những người anh, người chị thân thương, đã cho chúng tôi thêm niềm tin để vững bước vượt qua nhiều thử thách. Không chỉ hỗ trợ, tư vấn về những hành trang du học cần thiết, các anh chị còn là chỗ dựa tinh thần từ xa cho chúng tôi, chia sẻ những khó khăn trong học tập lẫn cuộc sống”, giảng viên Nguyễn Thị Tuyết Ngân chia sẻ.
“Thời gian đầu mới sang Ấn Độ, tiếng Anh của tôi còn hạn chế, ảnh hưởng tới cả việc học tập lẫn hòa nhập với trường lớp. Nhận thấy được điều này, các cán bộ của MCNV đã sắp xếp để tôi tham gia thêm một khóa tiếng Anh nữa, củng cố nền tảng ngôn ngữ”, giảng viên Vũ Thị Loan kể.
Sau 3 năm học trở về, chị Loan đã có thể tự tin với khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh của mình. Trong sự kiện kỷ niệm Ngày HĐTL thế giới, chị đã tự tin đứng trên sân khấu làm phiên dịch cho chuyên gia HĐTL người Hà Lan Anne Kuijs trong phần chia sẻ của bà về HĐTL trong Nhi khoa, với không ít những thuật ngữ khó.
Con đường phía trước
Sau thời gian thực tập tại ĐH KTYT Hải Dương, ba giảng viên sẽ trở lại Ấn Độ để hoàn thành chương trình Thạc sĩ. 3 năm học tập tại nước bạn đã truyền cho họ không chỉ kiến thức, mà còn là nguồn cảm hứng, sự say mê với ngành HĐTL.
“Ngành HĐTL thực sự rất thú vị và hữu ích. Trước khi du học, những hiểu biết của mình còn rất mơ hồ, vẫn thường có những nhầm lẫn giữa Vật lý trị liệu và Hoạt động trị liệu. Còn giờ đây, mình đã có những kiến thức, kỹ năng khá vững vàng về HĐTL. Mình đặc biệt tâm đắc với sự kết hợp của HĐTL cùng Ngữ âm trị liệu và Vật lý trị liệu trong phục hồi chức năng, và tôn chỉ “lấy người bệnh làm trung tâm”
“Sự phối kết hợp liên chuyên ngành theo chiều sâu sẽ đem lại hiệu quả điều trị tối đa cho người bệnh, đây cũng chính là kim chỉ nam của những nhà hoạt động trị liệu”, giảng viên Nguyễn Thị Tuyết Ngân cho biết.
Còn với giảng viên Nguyễn Khắc Tuấn, anh đang có những nhìn nhận rất lạc quan về phát triển HĐTL tại Việt Nam:
“Tuy thời gian tham gia giảng dạy của mình về HĐTL ở Trường chưa nhiều, nhưng mình nhận thấy hầu hết sinh viên đều rất hứng thú với HĐTL. Thực chất HĐTL không phải là những gì cao xa, đòi hỏi máy móc, kỹ thuật cầu kỳ. HĐTL luôn lấy người bệnh là trung tâm, quan tâm tới những nhu cầu, mong muốn của người bệnh, qua đó hướng họ tham gia vào những công việc có ý nghĩa trong cuộc sống hàng ngày, để cải thiện, duy trì và nâng cao sức khỏe, tạo ra sự độc lập một cách tối đa.”
Anh Nguyễn Khắc Tuấn cho biết, hiện tại, các giảng viên như anh đang cùng nhà trường xây dựng phòng thực hành HĐTL trong khoa Phục hồi chức năng của bệnh viện trường Đại học KTYT Hải Dương.
Nói về dự định sau khi hoàn thành chương trình Thạc sĩ trở về, anh cho biết:
“Mình hi vọng sẽ giúp Trường xây dựng được một hệ thống đào tạo HĐTL một cách cơ bản, đồng thời tăng cường hợp tác với các bệnh viện, trường đại học trong nước và quốc tế để tạo nên một mạng lưới HĐTL rộng khắp và bền vững tại Việt Nam.”
Theo “Báo cáo toàn cầu về tình hình khuyết tật” của Tổ chức Y tế thế giới vào năm 2011, có khoảng trên 60% người khuyết tật tại các quốc gia đang phát triển có nhu cầu phục hồi chức năng. Tại Việt Nam, con số này tương đương 4 triệu người.Tại Việt Nam, chỉ tính riêng nhóm đối tượng bị tổn thương tủy sống cần tới sự giúp đỡ đặc biệt của HĐTL tại hai bệnh viện lớn nhất toàn quốc là Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) và Chợ Rẫy (TP.HCM), trung bình mỗi năm đã có tới 2.000 trường hợp.Bên cạnh đào tạo nhân lực, MCNV cũng là hạt nhân tích cực góp phần phát triển mạng lưới HĐTL, nâng cao nhận thức của xã hội về nghề HĐTL và tham gia xây dựng các chính sách liên quan tới HĐTL tại Việt Nam.
Trên thế giới, từ hàng trăm năm nay, hoạt động trị liệu (HĐTL) đã là một phần không thể thiếu trong phục hồi chức năng, giúp bệnh nhân tái hòa nhập cuộc sống trong cộng đồng và giảm thiểu tỉ lệ tàn tật.
Tuy nhiên, đến năm 2015, Việt Nam vẫn chưa có đào tạo HĐTL chuyên nghiệp. HĐTL mới chỉ có ở một số ít bệnh viện lớn, nhờ vào sự hỗ trợ của các sinh viên hoặc kỹ thuật viên nước ngoài. Bởi vậy, kết thúc quá trình điều trị tại bệnh viện, việc duy trì HĐTL cho bệnh nhân tại nhà còn rất hạn chế. Trong khi đó, đối với người khuyết tật, người sau tai nạn, tai biến…chỉ riêng những sinh hoạt thường nhật như vệ sinh cá nhân, ăn uống, di chuyển…đã là những thách thức không nhỏ.
Những hạt giống đầu tiên
Trước nhu cầu cấp thiết về HĐTL tại Việt Nam, năm 2015, Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) đã khởi xướng dự án Phát triển đào tạo HĐTL chuyên nghiệp, với sự tài trợ của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), thông qua tổ chức Humanity & Inclusion (HI).
Năm 2016, cùng 2 giảng viên Đại học Y Dược TP.HCM, các giảng viên của Đại học Kỹ thuật Y tế (ĐH KTYT) Hải Dương Nguyễn Khắc Tuấn, Nguyễn Thị Tuyết Ngân và Vũ Thị Loan đã trở thành những “hạt giống đầu tiên” trên con đường “ươm mầm” ngành HĐTL tại Việt Nam. Tháng 8 năm 2019, họ đã hoàn thành một phần lộ trình của mình, sau khi tốt nghiệp Cử nhân về HĐTL tại ĐH Tổng hợp Manipal (Ấn Độ), ngôi trường có bề dày hơn 50 năm kinh nghiệm trong đào tạo chuyên ngành này.
Trước khi quay trở lại ĐH Tổng hợp Manipal để hoàn thành chương trình Thạc sĩ, 3 giảng viên đang thực tập tại ĐH KTYT Hải Dương dưới sự hướng dẫn của chuyên gia HĐTL đến từ Hà Lan.
Trong sự kiện kỷ niệm Ngày HĐTL thế giới diễn ra trên giảng đường ĐH KTYT Hải Dương vào cuối tháng 10, các giảng viên đã góp phần khơi dậy niềm yêu thích, sự say mê với ngành HĐTL cho hàng trăm sinh viên, từ khái niệm cơ bản cho đến những khía cạnh chuyên sâu như can thiệp HĐTL trong lĩnh vực phục hồi chức năng, các bệnh tâm thần, bệnh lý nhi khoa, mô hình can thiệp nhóm…
Một giờ thực hành về HĐTL tại ĐH TH Manipal, Ấn Độ. Ảnh: NVCC
Những kiến thức được minh họa bằng những ví dụ từ kinh nghiệm thực tiễn của ba giảng viên trẻ trong thời gian học tập tại Ấn Độ đã đem đến cho sinh viên góc nhìn vừa mới mẻ vừa gần gũi về HĐTL. Điển hình như cách phát hiện mối rủi ro tại nhà, đảm bảo an toàn cho người bệnh; chỉnh sửa, thiết kế lại những đồ dùng hàng ngày như chiếc thìa để bệnh nhân có thể tự ăn mà không cần trợ giúp từ người nhà…
Phần thuyết trình đầy tự tin, lôi cuốn kèm theo những giải đáp thắc mắc của sinh viên một cách cụ thể đã cho thấy tâm huyết, sự đào sâu, ý thức tìm tòi trong học tập và nghiên cứu của các giảng viên trên bước đường đến với HĐTL.
Hành trình “nảy mầm”
Chị Nguyễn Thị Tuyết Ngân (thứ 2, từ trái sang) và các giảng viên, bạn học tại Ấn Độ. Ảnh: NVCC
Để có được sự tự tin, nền tảng kiến thức vững vàng về HĐTL như ngày hôm nay, ba giảng viên đã phải vượt qua không ít thử thách, đó là những bỡ ngỡ khi lần đầu sống xa nhà trong thời gian dài, việc làm quen với ngành học mới mẻ bằng ngoại ngữ, rào cản về ngôn ngữ, văn hóa ở nước ngoài.
Bên cạnh lòng quyết tâm, ý chí vươn lên mạnh mẽ và bền bỉ của bản thân thì sự thông cảm, hỗ trợ tận tâm của các giảng viên, bạn bè Ấn Độ đã giúp họ vượt qua những ngày “vạn sự khởi đầu nan” ấy.
“Trong những tiết học, các thầy cô giáo thường cố gắng nói chậm hơn, để sinh viên quốc tế như chúng tôi bắt kịp bài giảng. Bất kể khi nào chúng tôi có câu hỏi, các thầy cô đều nhiệt tình giải đáp. Biết chúng tôi mới nhập học còn nhiều bỡ ngỡ, các thầy cô còn lồng ghép những câu chuyện vui vào giờ giảng, tạo bầu không khí thoải mái, thư giãn. Trong những bài tập như viết bệnh án, các bạn học, thầy cô cũng tỉ mỉ giúp sửa chữa những phần làm chưa tốt, giúp sinh viên tiến bộ cả về mặt ngôn ngữ lẫn kiến thức chuyên ngành”, giảng viên Nguyễn Thị Tuyết Ngân xúc động nhớ lại.
Không chỉ quan tâm tới sinh viên trong những giờ giảng trên lớp, các giảng viên ĐH Tổng hợp Manipal còn tận tình chăm lo tới đời sống của những bạn trẻ đến từ Việt Nam.
“Những ngày đầu tiên khi chúng tôi mới sang, các thầy cô đã không ngại dành nguyên một ngày để lặn lội dẫn chúng tôi đi tìm nhà trọ phù hợp”, giảng viên Nguyễn Khắc Tuấn kể.
(Từ trái qua) Giảng viên Nguyễn Khắc Tuấn, Vũ Thị Loan và các bạn học. Ảnh: NVCC
Không chỉ nhận được sự hỗ trợ của thầy cô, bè bạn Ấn Độ, hành trình 3 năm học tập của ba giảng viên trẻ còn được đồng hành bởi MCNV, đơn vị triển khai dự án.
“Chúng tôi luôn nhận được sự tiếp sức của các cán bộ MCNV, những người anh, người chị thân thương, đã cho chúng tôi thêm niềm tin để vững bước vượt qua nhiều thử thách. Không chỉ hỗ trợ, tư vấn về những hành trang du học cần thiết, các anh chị còn là chỗ dựa tinh thần từ xa cho chúng tôi, chia sẻ những khó khăn trong học tập lẫn cuộc sống”, giảng viên Nguyễn Thị Tuyết Ngân chia sẻ.
“Thời gian đầu mới sang Ấn Độ, tiếng Anh của tôi còn hạn chế, ảnh hưởng tới cả việc học tập lẫn hòa nhập với trường lớp. Nhận thấy được điều này, các cán bộ của MCNV đã sắp xếp để tôi tham gia thêm một khóa tiếng Anh nữa, củng cố nền tảng ngôn ngữ”, giảng viên Vũ Thị Loan kể.
Sau 3 năm học trở về, chị Loan đã có thể tự tin với khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh của mình. Trong sự kiện kỷ niệm Ngày HĐTL thế giới, chị đã tự tin đứng trên sân khấu làm phiên dịch cho chuyên gia HĐTL người Hà Lan Anne Kuijs trong phần chia sẻ của bà về HĐTL trong Nhi khoa, với không ít những thuật ngữ khó.
Con đường phía trước
Sau thời gian thực tập tại ĐH KTYT Hải Dương, ba giảng viên sẽ trở lại Ấn Độ để hoàn thành chương trình Thạc sĩ. 3 năm học tập tại nước bạn đã truyền cho họ không chỉ kiến thức, mà còn là nguồn cảm hứng, sự say mê với ngành HĐTL.
“Ngành HĐTL thực sự rất thú vị và hữu ích. Trước khi du học, những hiểu biết của mình còn rất mơ hồ, vẫn thường có những nhầm lẫn giữa Vật lý trị liệu và Hoạt động trị liệu. Còn giờ đây, mình đã có những kiến thức, kỹ năng khá vững vàng về HĐTL. Mình đặc biệt tâm đắc với sự kết hợp của HĐTL cùng Ngữ âm trị liệu và Vật lý trị liệu trong phục hồi chức năng, và tôn chỉ “lấy người bệnh làm trung tâm”
“Sự phối kết hợp liên chuyên ngành theo chiều sâu sẽ đem lại hiệu quả điều trị tối đa cho người bệnh, đây cũng chính là kim chỉ nam của những nhà hoạt động trị liệu”, giảng viên Nguyễn Thị Tuyết Ngân cho biết.
Còn với giảng viên Nguyễn Khắc Tuấn, anh đang có những nhìn nhận rất lạc quan về phát triển HĐTL tại Việt Nam:
“Tuy thời gian tham gia giảng dạy của mình về HĐTL ở Trường chưa nhiều, nhưng mình nhận thấy hầu hết sinh viên đều rất hứng thú với HĐTL. Thực chất HĐTL không phải là những gì cao xa, đòi hỏi máy móc, kỹ thuật cầu kỳ. HĐTL luôn lấy người bệnh là trung tâm, quan tâm tới những nhu cầu, mong muốn của người bệnh, qua đó hướng họ tham gia vào những công việc có ý nghĩa trong cuộc sống hàng ngày, để cải thiện, duy trì và nâng cao sức khỏe, tạo ra sự độc lập một cách tối đa.”
Anh Nguyễn Khắc Tuấn cho biết, hiện tại, các giảng viên như anh đang cùng nhà trường xây dựng phòng thực hành HĐTL trong khoa Phục hồi chức năng của bệnh viện trường Đại học KTYT Hải Dương.
Nói về dự định sau khi hoàn thành chương trình Thạc sĩ trở về, anh cho biết:
“Mình hi vọng sẽ giúp Trường xây dựng được một hệ thống đào tạo HĐTL một cách cơ bản, đồng thời tăng cường hợp tác với các bệnh viện, trường đại học trong nước và quốc tế để tạo nên một mạng lưới HĐTL rộng khắp và bền vững tại Việt Nam.”
Theo “Báo cáo toàn cầu về tình hình khuyết tật” của Tổ chức Y tế thế giới vào năm 2011, có khoảng trên 60% người khuyết tật tại các quốc gia đang phát triển có nhu cầu phục hồi chức năng. Tại Việt Nam, con số này tương đương 4 triệu người.Tại Việt Nam, chỉ tính riêng nhóm đối tượng bị tổn thương tủy sống cần tới sự giúp đỡ đặc biệt của HĐTL tại hai bệnh viện lớn nhất toàn quốc là Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) và Chợ Rẫy (TP.HCM), trung bình mỗi năm đã có tới 2.000 trường hợp.Bên cạnh đào tạo nhân lực, MCNV cũng là hạt nhân tích cực góp phần phát triển mạng lưới HĐTL, nâng cao nhận thức của xã hội về nghề HĐTL và tham gia xây dựng các chính sách liên quan tới HĐTL tại Việt Nam.
Hôm nay, ngày 1/11/2019, tại trụ sở Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam (VUFO), VUFO đã phối hợp với Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Phú Yên tổ chức thành công “Hội nghị vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài – tỉnh Phú Yên”.
Đến dự Hội nghị có ông Bạch Ngọc Chiến – Phó chủ tịch VUFO, ông Phan Đình Phùng – Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên, cùng đại diện các ban ngành và hơn 50 tổ chức trong nước và quốc tế có mối quan hệ hợp tác với tỉnh Phú Yên như Phái đoàn Liên minh Châu Âu EU, Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), các tổ chức Oxfam, Marie Stopes International, Đông Tây Hội Ngộ, Action Aid, MCNV…
Hội nghị đã trình bày báo cáo về công tác vận động viện trợ nước ngoại tại tỉnh Phú Yên trong thời gian qua, đồng thời đưa ra định hướng và kế hoạch từ nay đến năm 2021.
MCNV vinh dự là một trong sáu tổ chức được UBND tỉnh Phú Yên vinh danh và trao tặng bằng khen vì những đóng góp tích cực cho sự phát triển của tỉnh Phú Yên.
Tại hội nghị, ông Phạm Dũng – Giám đốc quốc gia MCNV Việt Nam và ông Nguyễn Hữu Từ – Chủ tịch UBND Huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên đã ký kết Biên bản ghi nhớ về “Hợp tác vận động tài trợ và thực hiện dự án tại Huyện Đồng Xuân, giai đoạn 2021 – 2022”. Dự án tập trung mở rộng mô hình tiếp cận dinh dưỡng – nông nghiệp để giải quyết vấn đề suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tại các xã, huyện miền núi trên địa bàn huyện Đồng Xuân của tỉnh Phú Yên.
Ông Phạm Dũng – Giám đốc quốc gia MCNV Việt Nam và ông Nguyễn Hữu Từ – Chủ tịch UBND Huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên đã ký kết Biên bản ghi nhớ.
Ngày 1/12/2018, MCNV đã phối hợp với ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương tổ chức hội thảo “Chia sẻ kinh nghiệm đào tạo HĐTL và kế hoach phân công công tác cho các cử nhân HĐTL tại các cơ sở bệnh viện và TT PHCN” với sự tham gia của đại diện Phòng Phục hồi chức năng, Cục Quản lý khám chữa bệnh – Bộ Y tế, các bệnh viện và trung tâm PHCN của gần 12 tỉnh, thành ở miền Bắc, lãnh đao và giảng viên ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương, ĐH Y Dược Tp. HCM, ĐH Tổng hợp Manipal (Ấn Độ), các tình nguyện viên HĐTL quốc tế tham gia hướng dẫn lâm sàng và sinh viên đang theo học lớp cử nhân HĐTL tại trường ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương. Hội thảo được tổ chức nhằm đánh giá và rút kinh nghiệm trong công tác tổ chức khoá đào tạo Cử nhân kỹ thuật PHCN (chuyên ngành HĐTL) được triển khai tại hai trường ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương và ĐH Y Dược Tp. HCM trong thời gian 2 năm 2017 và 2018. Đồng thời, Hội thảo cũng là cơ hội để MCNV, Trường ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương trao đổi với lãnh đạo các cơ sở PHCN có sinh viên đang theo học về việc phối hợp trong việc phân công nhiệm vụ và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên có môi trường thực hành nghề HĐTL sau khi về đơn vị công tác.
Tính đến thời điểm tháng 11/2018, Trường ĐH Tổng hợp Manipal, Ấn Độ, đã cử tổng cộng 6 lượt giảng viên sang ĐH Y Dược Tp. HCM và ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương hỗ trợ giảng dạy cho 57 sinh viên các môn chuyên ngành về HĐTL với sự hỗ trợ hướng dẫn lâm sàng từ các tình nguyện viên HĐTL quốc tế đến từ Nhật Bản, Đan Mạch và Úc. Theo kế hoạch, tháng 5/2019 chương trình đào tạo thí điểm cử nhân kỹ thuật PHCN chuyên ngành HĐTL hệ liên thông vừa học vừa làm tại ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương sẽ kết thúc với 36 sinh viên tốt nghiệp và tới tháng 7/2020 sẽ có thêm 21 sinh viên tốt nghiệp khoá chính quy tại ĐH Y Dược Tp HCM.
Đây là video về lễ kỷ niệm 50 năm MCNV vào ngày 16/11/2018. Sự kiện này diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở Hà Nội với sự tham dự của khoảng 150 khách mời là đại diện cho các bộ, ban, ngành, các cơ quan ngoại giao, các tổ chức trong nước và quốc tế, các đối tác của MCNV từ các tỉnh, thành, và các cơ quan thông tấn báo chí. Tại sự kiện này, MCNV vinh dự đón nhận tấm Huân chương Hữu nghị từ Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam. Đây là lần thứ 4 trong chiều dài 50 năm hình thành và phát triển MCNV có được vinh dự này. Sau đây là video về toàn cảnh buổi lễ kỷ niệm: https://www.youtube.com/watch?v=w5VTziaGf0w
BS Phạm Dũng, Giám đốc MCNV tại Việt Nam, phát biểu tại hội thảo
Vào ngày 21/12/2018, Hội thảo Chia sẻ kết quảDự án Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh PTTH đã diễn ra tại Khách sạn Hữu nghị, Tp. Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Các đại diện của MCNV, Sở Giáo dục – Đào tạo, Sở Y tế, Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Quảng Trị và gần 30 trường THPT trong toàn tỉnh đã tham dự và chia sẻ tại hội thảo này. Tại hội thảo, MCNV và các bên liên quan đã cùng nhau nhìn nhận lại thực trạng sức khỏe tâm thần (SKTT) ở học sinh THPT, những hoạt động can thiệp mà MCNV cùng đối tác địa phương đã thực hiện trong dự án, những kết quả đáng chú ý và đề xuất định hướng tiếp theo trong thời gian tới.
Dự án Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh PTTH được triển khai thí điểm tại Trường THPT Vĩnh Linh từ tháng 5/2017 nhằm mục tiêu giảm tỷ lệ học sinh có vấn đề SKTT và có nguy cơ mắc phải các vấn đề SKTT, nâng cao năng lực về chăm sóc SKTT cho giáo viên, và nâng cao kiến thức, thái độ và hành vi của học sinh và phụ huynh trong chăm sóc SKTT. Trước khi triển khai dự án, MCNV đã tiến hành khảo sát thực trạng SKTT học sinh THPT tại tỉnh Quảng Trị. Kết quả khảo sát cho thấy có đến 11,8% học sinh THPT có vấn đề SKTT và 20,86% nguy cơ có vấn đề SKTT.
Sau 18 tháng triển khai dự án, MCNV đã phối hợp cùng Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh Quảng Trị và Trường THPT Vĩnh Linh thực hiện nhiều hoạt động can thiệp khác nhau, bao gồm thành lập tổ tư vấn chăm sóc SKTT ở trường THPT Vĩnh Linh, tập huấn nâng cao kiến thức và kỹ năng về SKTT cho tổ tư vấn và chia sẻ những kiến thức, kỹ năng này với các giáo viên khác trong trường, sử dụng công cụ SDQ25 (của Tổ chức Y tế Thế giới) để khảo sát và theo dõi tình trạng SKTT của học sinh, tư vấn tâm lý cho những học sinh có vấn đề SKTT, tổ chức các hoạt động truyền thông về SKTT ở nhà trường, lớp học, CLB và các buổi họp phụ huynh, cũng như tăng cường chia sẻ thông tin và tương tác về SKTT học sinh thông qua trang Facebook có tên gọi Vững niềm tin. Trong quá trình thực hiện, một số hoạt động của dự án nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ các chuyên gia tâm lý của Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng.
Những hoạt động can thiệp nói trên đã góp phần giúp giáo viên của nhà trường và tổ tư vấn có những kiến thức và kỹ năng cơ bản để phát hiện và can thiệp những học sinh có vấn đề về sức khoẻ tâm thần, đồng thời thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của giáo viên, học sinh và phụ huynh về chăm sóc SKTT. So sánh kết quả khảo sát đầu kỳ và cuối kỳ cho thấy sau 18 tháng thực hiện dự án tỷ lệ học sinh có vấn đề SKTT đã giảm xuống còn 4,97% (so với 9,32% trước can thiệp) và tỷ lệ học sinh nguy cơ có vấn đề SKTT giảm xuống còn 12,88% (so với 17,74% trước can thiệp).
Với những kết quả tích cực của dự án thí điểm này, Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh Quảng Trị và các trường THPT đã đề xuất MCNV tiếp tục nhân rộng mô hình dự án đến các trường THPT khác trong tỉnh. Trước mắt, MCNV cam kết sẽ cố gắng huy động nguồn lực trong thời gian tới để đáp ứng mong đợi này từ phía địa phương.
Để có góc nhìn đầy đủ hơn về Dự án chăm sóc SKTT học sinh trường THPT Vĩnh Linh, các bạn có thể tham khảo tài liệu dành cho giáo viên và học sinh ở mục Góc thông tin của website này và theo dõi phóng sự sau đây về dự án trên YouTube: https://www.youtube.com/watch?v=cDek9rLsw4c&t=53s
Your ticket for the: Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh THPT: Mô hình thí điểm của MCNV ở Quảng Trị
Title
Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh THPT: Mô hình thí điểm của MCNV ở Quảng Trị
USD
We use cookies to ensure that we give you the best experience on our website. If you continue to use this site we will assume that you are happy with it.OkNo