Các hoạt động

Những sản phẩm từ cây tre: Điểm sáng từ núi rừng Bắc Hướng Hóa

Từ năm 2018, Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) đã hỗ trợ một số hộ dân ở các thôn Chênh Vênh (xã Hướng Phùng), thôn Cù Bai (xã Hướng Lập) và thôn Tà Puồng (xã Hướng Việt), huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị sản xuất một số sản phẩm từ cây tre để cung ứng cho thị trường trong và ngoài nước.

Đây là một sáng kiến hướng đến vận động cộng đồng hạn chế sử dụng các vật dụng vô cơ dùng một lần sang sử dụng các sản phẩm hữu cơ thân thiện với môi trường, đồng thời tạo cơ hội phát triển sinh kế cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số Vân Kiều, Pa Cô ở tỉnh Quảng Trị.
Các sản phẩm hiện đang được sản xuất ở các thôn nói trên bao gồm: ống hút, hộp đựng bút hoặc đựng các vật dụng cá nhân khác, ống đựng nến sáp và bộ dao, thìa, nĩa du lịch. Tất cả đều được làm bằng các loại tre sẵn có ở địa phương như lồ ô, luồng, len xanh, a ho, li a, …
MCNV cho biết hiện nay thôn Chênh Vênh có 10 hộ tham gia sản xuất ống hút từ cây len xanh. Trong năm 2019, các hộ dân trong thôn đã sản xuất với sản lượng khoảng 50.000 ống, với giá thành từ 1.000 – 3.000 đồng/ống tùy theo chất lượng, qua đó đạt doanh số gần 100 triệu đồng/năm, tương đương khoảng 10 triệu đồng/hộ.
Cây len xanh thường mọc tự nhiên trên các lèn đá, gần các thác nước ở trên cao, mỗi năm chỉ khai thác được một lần khi cây đã già. Mỗi gốc cây len xanh cho khai thác được khoảng 5 – 8 cành/năm, mỗi cành cho khoảng 7 -10 đốt, khoảng cách giữa các đốt khoảng 20 – 25 cm. Sau khi khai thác về, các hộ dân sử dụng máy cắt tre do MCNV hỗ trợ, cắt len xanh thành từng ống dài 18 – 23 cm, sau đó luộc vô trùng trong 5 – 6 giờ đồng hồ.

Sau khi luộc, len xanh được lau hết lớp nhớt bám trên bề mặt ngoài và làm sạch lớp phấn bên trong lòng ống, được phơi nắng trong 7 – 8 ngày rồi mài nhẵn hai đầu ống và bó thành từng bó nhỏ để cung ứng cho thị trường.

Chị Hồ Thị Xăng (phải) và Hồ Thị Lý, 2 trong 10 thành viên của nhóm sản xuất tre thôn Chênh Vênh, xã Hướng Phùng (Ảnh: Nguyễn Thanh Tùng)

Chị Hồ Thị Xăng, một thành viên trong nhóm sản xuất thôn Chênh Vênh cho biết việc được hỗ trợ sản xuất ống hút tre mang đến niềm hi vọng đổi thay về kinh tế. Chị Xăng bảo, trước đây, hai vợ chồng ngoài đi làm rẫy, đi rừng thì ai kêu gì làm nấy. Đầu tắt mặt tối cả ngày nhưng không đủ ăn. Con cái nhỏ nên chị phải ở nhà chăm con, gánh nặng dồn lên vai chồng, chuyện thiếu đói thường xuyên diễn ra.
“Tuy việc làm ống hút tre khá công phu, đòi hỏi tuân thủ các bước để đảm bảo đẹp, vệ sinh, đúng kích thước, nhưng làm nhiều rồi thành quen. Giờ chỉ cần siêng năng thì tháng nào cũng kiếm ra tiền từ việc làm ống hút tre”, chị Xăng bộc bạch. Cách làm ăn mới không chỉ giúp những người phụ nữ như chị Xăng tìm ra phương kế đổi thay đời sống kinh tế mà còn giúp “kéo” nhiều người đàn ông ra khỏi bàn rượu, lên rừng chặt tre về sản xuất ống hút.

Chị Hồ Thị Xăng rạng rỡ bên nồi luộc ống hút tre (Ảnh: Phan Tân Lâm)
Theo ông Hồ Văn Noi, một thành viên khác của nhóm sản xuất tre thôn Chênh Vênh, các hộ dân tham gia sản xuất ống hút tranh thủ những khi đi làm trên rẫy để khai thác len xanh và tranh thủ sản xuất ống hút những khi nông nhàn, bình quân mỗi hộ có khoảng 2 người tham gia sản xuất. Khó khăn hiện nay là số lượng cây len xanh tại địa phương ít và sinh sống ở những nơi hiểm trở rất khó khai thác. Do đó, mỗi năm người dân nơi đây chỉ khai thác len xanh trong khoảng thời gian vài tháng là thiếu nguyên liệu sản xuất.
Ông Phan Ngọc Long, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hướng Phùng, chia sẻ: Được sự hỗ trợ và hướng dẫn của MCNV, người dân thôn Chênh Vênh rất tích cực tham gia mô hình sản xuất ống hút từ cây len xanh. Do cây sống hoàn toàn tự nhiên nên rất hạn chế về nguồn nguyên liệu, mong các sở, ban, ngành liên quan quan tâm hỗ trợ, nghiên cứu các giải pháp mở rộng diện tích trồng cây len xanh, chủ động được nguồn nguyên liệu sản xuất, tăng thêm thu nhập và cải thiện đời sống cho các hộ dân, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Để đa dạng hóa hoạt động sản xuất và sản phẩm từ tre, ngoài ống hút từ cây len xanh, MCNV đã hỗ trợ cho 3 nhóm sản xuất ở 3 thôn tiếp tục sản xuất các sản phẩm khác từ các loại tre khác rất sẵn có ở địa phương, đặc biệt là cây a ho (tên gọi theo theo tiếng Vân Kiều) và lồ ô. Bên cạnh hỗ trợ xây dựng nhà phơi sấy, cung cấp máy móc và hướng dẫn tổ chức sản xuất cho các nhóm, MCNV còn tổ chức các lớp học nghề tiện tre cho một số thành viên chủ chốt của các nhóm sản xuất và cùng các nhóm tìm hỏi, học hỏi cách sản xuất ra các sản phẩm ngoài ống hút. Hộp đựng bút và vật dụng cá nhân, ống đựng nến sáp và bộ dao, thìa, nĩa du lịch là những sản phẩm như vậy.

Việc sản xuất những sản phẩm này đòi hỏi sự tỉ mỉ, sáng tạo, tinh tế và sự chịu khó của người sản xuất. Bù lại, khi xuất hiện trên thị trường, những sản phẩm này được người tiêu dùng rất ưa thích và đánh giá cao, đặc biệt là với khách nước ngoài. Hiện nay, Hội An Roastery, một doanh nghiệp tại Quảng Nam là đơn vị bao tiêu những sản phẩm này để bán phục vụ khách nước ngoài đến tham quan du lịch tại Phố cổ Hội An.

Ở thôn Cù Bai, xã Hướng Lập, ống tre là sản phẩm chủ lực. Ảnh: Lê Minh Vũ

Trong tương lai gần, MCNV tiếp tục giúp các nhóm sản xuất tăng cường kết nối đến các thị trường trong nước và ngoài nước. Hiện nay, song song với hoạt động sản xuất, các nhóm cũng chú trọng đến việc phát triển vùng nguyên liệu, đặc biệt là trồng thêm cây len xanh ở các khu vực đồi núi gần nhà.
Hiện đã có 20 hộ gia đình ở 3 xã Hướng Phùng, Hướng Việt, Hướng Lập tham gia sản xuất các sản phẩm từ tre. Đây là giải pháp thiết thực, vừa giúp bà con tăng thu nhập, vừa giúp bà con đóng góp tích cực cho thị trường sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường.
“Thời gian tới, chúng tôi giúp bà con phát triển vùng nguyên liệu tre, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm, cải thiện năng suất sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng liên kết thị trường”, một cán bộ dự án của MCNV cho biết thêm.

Con gái một thành viên nhóm sản xuất thôn Chênh Vênh, xã Hướng Phùng và những sản phẩm ống hút đã hoàn thiện. (Ảnh: Phan Tân Lâm)

Nhìn những đôi tay chai sần đã quen với việc làm nương, làm rẫy nay miệt mài sáng tạo những sản phẩm từ tre, những gương mặt sạm nắng giãn ra với nụ cười vui mà trong lòng người viết dâng lên bao bồi hồi, xúc cảm. Ngày mai, các sản phẩm tre kia của bà con sẽ được chuyển về phố xá, ra nước ngoài, thu nhập của bà con sẽ khấm khá và đều đặn hơn nhiều lần những vụ mùa trên nương rẫy nhờ trời. Những sản phẩm từ cây tre đang thực sự góp phần thay đổi cuộc sống của bà con dân tộc thiểu số ở những dãy núi xa xôi, hẻo lánh vùng biên ải.

Read more

Tín dụng tiết kiệm: Nguồn tiếp sức tin cậy của phụ nữ Bến Tre

Ở huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, hơn 10 năm nay, có một dự án được ví như nguồn tiếp sức tin cậy, giúp hàng ngàn phụ nữ vượt khó, thoát nghèo, vững vàng ứng phó với biến đổi khí hậu.

Những đồng vốn thoát nghèo

Trước đây, gia đình chị Trương Thị Phượng (sinh năm 1972) ngụ ở Ấp Phú Thành, xã Phú Vang, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre sống dựa vào nguồn thu nhập từ mảnh vườn nhỏ trồng rau và số tiền công khiêm tốn từ việc làm thuê, làm mướn của hai vợ chồng. Dù siêng năng, cần mẫn lao động nhưng cuộc sống gia đình anh chị vẫn không tránh được cảnh “thiếu trước, hụt sau”. Hai con trúng tuyển Đại học, anh chị vừa mừng vừa lo. Mừng vì tương lai của con sẽ sáng sủa hơn cha mẹ, lo vì việc con thành sinh viên sẽ kéo theo chồng chất chi phí trong suốt 4 năm.

Bước ngoặt đến với gia đình chị Phượng vào năm 2015, khi chị trở thành thành viên Hội liên hiệp Phụ nữ xã Phú Vang và được tiếp cận với Dự án tín dụng tiết kiệm của Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) và các nhà tài trợ.

Với nguồn vốn được hỗ trợ, vợ chồng chị Phượng nhanh chóng lên kế hoạch thoát nghèo. Anh chị sử dụng một phần vốn để mua gà, vịt về nuôi, phần còn lại chị Phượng dùng để mở một tiệm tạp hóa nhỏ.

Chị Trương Thị Phượng bên tiệm tạp hóa được mở nhờ nguồn vốn hỗ trợ bởi Dự án của MCNV

Chị Phượng tâm sự: Thời gian đầu, do còn thiếu kinh nghiệm, việc chăn nuôi và buôn bán cũng gặp khó khăn. Nhưng nhờ tích cực tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật do hội phụ nữ phối hợp tổ chức, anh chị đã nhanh chóng nắm bắt được nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi cũng như kinh doanh. Số tiền lãi từ đây không chỉ là nguồn thu nhập ổn định trang trải cho đời sống gia đình, và dành dụm thêm để làm vốn quay vòng đầu tư, bên cạnh việc vay từ dự án.

Qua nhiều chu kỳ vay, qua tư vấn của cán bộ dự án và các chị em đi trước, chị Phượng đã mua thêm được 01 con bò cái, cho sinh sản thêm 02 con. Trừ hết chi phí chăn nuôi, gia đình có khoản thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi năm. 

Việc chăn nuôi bò ít tốn thì giờ, nên cùng lúc, chồng chị Phượng có thời gian làm thêm bên ngoài. Với các công việc như phụ hồ, lưới cá, mỗi ngày anh có thể kiếm được hàng trăm nghìn đồng.

Sau 5 năm tham gia Dự án tiết kiệm tín dụng của huyện Bình Đại, vợ chồng chị Trương Thị Phượng đã quyết định làm đơn xin ra khỏi diện hộ nghèo. Từ chỗ “thiếu trước, hụt sau”, giờ đây anh chị đã xây được nền tảng kinh tế vững vàng, nuôi các con ăn học đến nơi đến chốn, có việc làm ổn định. Căn nhà lụp xụp ngày nào cũng được sửa sang lại kiên cố, tiện nghi. 

Kinh tế ổn định, chị Phượng có thêm thời gian cho các sinh hoạt cộng đồng. Đặc biệt, chị luôn nhiệt tình chia sẻ kinh nghiệm làm ăn với bà con lối xóm, các hội viên phụ nữ, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn. Chị tâm sự:

“Một nắm khi đói bằng một gói khi no”, hơn ai hết, mình hiểu cái cuộc sống khổ, nghèo, thiếu thốn như thế nào, nên giờ giúp được ai điều gì là mình sẵn lòng giúp đỡ”.

Đi lên từ cảnh hàn vi, chị luôn ghi nhớ: Chính những đồng vốn và sự hỗ trợ của hội phụ nữ đã giúp chị “khởi nghiệp” và có được cuộc sống ổn định, no ấm như hôm nay…

Nước ngọt chống hạn

Những năm gần đây, Bến Tre phải đối mặt với những diễn biến phức tạp của xâm nhập mặn. Nguồn nước sinh hoạt do nhà máy nước cung cấp cho các đô thị trên địa bàn tỉnh cũng như hệ thống nhà máy của Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Bến Tre đã nhiễm mặn trên 2‰. 

Hạn mặn đang diễn ra gay gắt ở tỉnh Bến Tre. Ảnh minh họa: TTXVN

Nằm trên cù lao An Hoá, bốn phía sông, biển bao quanh, huyện Bình Đại là địa bàn bị đe dọa bởi xâm nhập mặn, độ mặn cao, mức độ xâm nhập sâu. Người dân lao đao vì đồng chua mặn khó chăn nuôi, trồng trọt, nước ngọt cho sinh hoạt, sản xuất khan hiếm.

Trong “cuộc chiến” chống hạn mặn gắt gao đó, Bình Đại đã may mắn được tiếp sức bởi dự án Tín dụng tiết kiệm. Song song với hỗ trợ vốn vay sinh kế,  Dự án đã tạo điều kiện thuận lợi giúp các hộ nghèo, cận nghèo và hộ khó khăn tiếp cận vốn vay để xây ống hồ, mua dụng cụ trữ nước mưa, nước ngọt phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất.

Tới nay, 954 hộ đã được Dự án hỗ trợ tự xây ống hồ trữ nước. Từ đầu năm đến nay, dự án tiếp tục hỗ trợ cho 149 hộ vay và đang tiếp tục được chị em hưởng ứng đông đảo. 

Chị Nguyễn Thị Kim Oanh (ấp Tân Long, xã Thạnh Phước) cho biết: “Năm 2016, tôi đăng ký vay vốn từ Dự án 5 triệu đồng để xây 2 ống hồ chứa khoảng 4m3 nước; tiền vật tư, tiền thợ, xây ống hồ hết 6 triệu đồng…”

Chị cho biết, với 2 ống hồ nước mưa cả năm gia đình sử dụng không hết. Vào mùa nắng, nhà chị sử dụng thêm nước giếng nên dư nước mưa.

Chị Nguyễn Thị Kim Oanh bên ống hồ chứa nước của gia đình

Thấy được lợi ích lâu dài, năm 2018, chị tiếp tục vay thêm 5 triệu đồng từ Dự án, vận chuyển cát, đá, xi-măng về để xây thêm 2 ống hồ chứa khoảng 6 m3 nước, kinh phí khoảng 7 triệu đồng.

“Nhờ xây ống hồ chứa nước mà trong tình trạng nước mặn này gia đình tôi mới có nước sử dụng sinh hoạt, còn hiện tại nước máy đã mặn không thể nào sử dụng được…”, chị chia sẻ.

Chị Nguyễn Thị Phương Thảo (sinh năm 1985) ở ấp Vinh Tân, xã Vang Quới Đông cũng là một trong những người đã được vay vốn để tự xây dựng hệ thống trữ nước mưa, nước ngọt. Tổng thể tích trữ nước mưa mà chị đang sử dụng vào khoảng 6m3 nhỏ cho gia đình 3 người.

Chị Phương Thảo cho biết: 

“Cũng do tình hình nước nhiễm mặn đều xảy ra hàng năm nên tôi xây ống hồ để chứa nước mưa hoặc nước ngọt để sinh hoạt hằng ngày. Vào năm 2016, khi biết Dự án có hỗ trợ nguồn vốn cho vay xây ống hồ, tôi làm hồ sơ đăng ký vay trong 24 tháng với mức vay là 5 triệu đồng để xây 2 ống hồ.”

Chị phấn khởi chia sẻ: “Xây được 2 ống hồ tôi rất vui, lợi ích lắm, không có ống hồ là giờ nhà tôi phải dùng nước măn như những năm trước, rồi sinh hoạt tắm rửa rất bất tiện. Sắp tới đây tôi dự định là sẽ tiếp tục vay vốn để làm thêm 2 cái ống hồ nữa do tình hình nước mặn kéo dài thì sợ sẽ không đủ nước…”

  • Dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại được MCNV và các nhà tài trợ triển khai từ năm 2009.
  • Đến nay dự án đã triển khai tại 11 xã và thị trấn, cung cấp nguồn tín dụng và các hỗ trợ hòa nhập kinh tế xã hội cho trên 5.000 phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương. Dự án hiện nay đã tự chủ về mặt tài chính và hoạt động theo cấp phép của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Bến Tre.
  • Trên cơ sở tín dụng vi mô, dự án không ngừng cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ cho người dân trong việc phát triển kinh tế gia đình, tăng cường hiểu biết và học hỏi, phòng tránh tác hại hạn mặn và hỗ trợ địa phương xây dựng Nông thôn mới.
Read more

Bình Đại (Bến Tre): Tập huấn kỹ thuật cho 15 cán bộ dự án Tín dụng tiết kiệm

15 nhóm trưởng và thành viên dự kiến của dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại (tỉnh Bến Tre) đã được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết về quản lý, điều hành và sinh hoạt nhóm thông qua lớp tập huấn diễn ra từ ngày 17-19/2.

Cán bộ chuyên trách chủ trì tập huấn

Lớp tập huấn nhằm tạo điều kiện để các nhóm tiết kiệm và vay vốn được tiếp cận với những kiến thức cần thiết về lĩnh vực vốn vay, tiếp cận và quản lý tốt nguồn vốn, sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế tại địa phương.

Trong 03 ngày diễn ra tập huấn, các cán bộ dự án đã giúp các học viên nắm bắt được một số vấn đề chung về tín dụng, nhóm tín dụng; phát triển, quản lý và điều hành nhóm vay vốn, giới thiệu về hoạt động của dự án (mục đích hoạt động, đối tượng khách hàng, chính sách vay vốn, huy động tiết kiệm bắt buộc…); hướng dẫn về cách lập hồ sơ, lưu trữ hồ sơ và một số kỹ năng tại buổi đi thực tế trong quá trình vận hành và quản lý nguồn vốn của Dự án .
Dưới sự hướng dẫn của các cán bộ dự án tại địa bàn, 15 học viên đã có được những hiểu biết nền tảng về tín dụng, nhóm tín dụng cũng như việc phát triển và quản lý và điều hành nhóm vay vốn

Bên cạnh đó, các nhóm trưởng tham gia cũng được cán bộ chuyên trách giải đáp một số vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện công tác vay vốn tại cơ sở, cách nắm bắt thông tin vay vốn…

Với những kiến thức, kỹ năng được trang bị, sau khi hoàn thành lớp tập huấn, các học viên đã có thêm sự tự tin, sẵn sàng trong tiếp cận quản lý nguồn vốn của dự án, để giúp cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ khó khăn có điều kiện phát triển kinh tế tại địa phương.

“Thông qua lớp tập huấn, Ban quản lý mong muốn mỗi học viên sau này sẽ là một cộng tác viên đắc lực cho Ban quản lý dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại trong công tác vận hành và quản lý nguồn vốn thời gian tới”, bà Võ Thị Bé Hai – Phó Trưởng ban quản lý Dự án chia sẻ.

Tập huấn Tín dụng tiết kiệm
  • Dự án Tín dụng tiết kiệm huyện Bình Đại được MCNV và các nhà tài trợ triển khai từ năm 2009.
  • Đến nay dự án đã triển khai tại 11 xã và thị trấn, cung cấp nguồn tín dụng và các hỗ trợ hòa nhập kinh tế xã hội cho trên 5.000 phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương. Dự án hiện nay đã tự chủ về mặt tài chính và hoạt động theo cấp phép của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Bến Tre.
  • Trên cơ sở tín dụng vi mô, dự án không ngừng cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ cho người dân trong việc phát triển kinh tế gia đình, tăng cường hiểu biết và học hỏi, phòng tránh tác hại hạn mặn và hỗ trợ địa phương xây dựng Nông thôn mới.
Read more

MCNV hưởng ứng tinh thần Ngày Quốc tế về Người khuyết tật 3/12

Ngày Quốc tế về Người khuyết tật (ngày 03/12) do Chương trình Thế giới Hành động về Người khuyết tật khởi xướng và được Đại Hội đồng Liên hiệp quốc thông qua năm 1992. Ngày này được ra đời nhằm mục đích thúc đẩy sự hiểu biết về vấn đề khuyết tật và huy động hỗ trợ cho nhân phẩm, quyền và phúc lợi của người khuyết tật, nâng cao nhận thức của các chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong mọi cộng đồng về việc lồng ghép và tích hợp vần đề người khuyết tật trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa. Một trọng tâm chính của lễ kỷ niệm ngày Quốc tế về Người khuyết tật hằng năm là vận động chính sách để ban hành các luật lệ và chuẩn mực quốc tế và quốc gia liên quan đến người khuyết tật và quyền của người khuyết tật được tham gia bình đẳng vào mọi lĩnh vực trong phát triển xã hội. Mỗi năm Liên hiệp quốc sẽ công bố một chủ đề khác nhau cho ngày này.

Chủ đề của Ngày quốc tế Người khuyết tật năm 2019 là “Thúc đẩy sự tham gia và lãnh đạo của người khuyết tật: hành động vì Chương trình nghị sự phát triển đến năm 2030”. Chủ đề năm nay chú trọng vào tăng cường vị thế của người khuyết tật vì sự phát triển hòa nhập, công bằng và bền vững như đã dự kiến trong Chương trình nghị sự về Sự phát triển Bền vững đến năm 2030 trong đó cam kết “không để ai bị bỏ lại phía sau” và nhận thức về khuyết tật như là một chủ đề xuyên suốt trong quá trình thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững.

Hằng năm, MCNV phối hợp với các đối tác để tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày 3/12 với tinh thần ủng hộ và hỗ trợ tối đa các hoạt động thức đẩy quyền của người khuyết tật, thể hiện sự tôn trọng nhân phẩm của người khuyết tật, tôn vinh đóng góp của người khuyết tật vào quá trình phát triển của xã hội. /.

Read more

Giúp hàng trăm em bé Chăm H’roi ngoan khỏe

Cách thành phố Tuy Hòa hơn 100 km về phía Tây Bắc, xã vùng cao Phú Mỡ, huyện Ðồng Xuân (Phú Yên) biệt lập với đồng bằng. Ở đây có 100% bà con là người Chăm H’roi. 25% số trẻ bị suy dinh dưỡng. Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam (MCNV) đã thống kê như trên và tổ chức này đã phối hợp cùng địa phương giúp cho các em bé có những bữa ăn cũng như cuộc sống tốt hơn.

Lo suy dinh dưỡng

Trái với cái tên toát lên vẻ trù phú, màu mỡ, Phú Mỡ được biết đến là xã “3 nhất” của tỉnh Phú Yên: “cao nhất, xa nhất, nghèo nhất”.

Với nhân khẩu hơn 3000 người, 100% là dân tộc Chăm H’roi, hơn 70% người dân ở đây thuộc hộ nghèo, cận nghèo. Đồng bào sống bằng nghề chính là nương rẫy, thu nhập chủ yếu dựa vào cây sắn, giá cả không ổn định nên đời sống rất bấp bênh. Cơm, lá sắn, rau rừng, muối ớt là những thực phẩm chính trong bữa ăn hàng ngày.

Theo khảo sát của MCNV và trường Đại học (ĐH) Y Dược Huế vào tháng 3/2018, 76,7% hộ gia đình xã Phú Mỡ và Xuân Quang 1 (huyện Đồng Xuân) không có đủ lương thực thực phẩm ăn trong một năm. Trong khu dân cư, các cửa hàng tạp hóa chỉ bán mì tôm, cháo ăn liền, bánh kẹo. Ở trường mầm non cũng không tổ chức ăn bán trú hay ăn sáng, do không đủ kinh phí.

Bởi vậy, ở xã Phú Mỡ, cứ trung bình trong 100 trẻ thì có đến 25 trẻ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi hoặc thiếu cân. Cá biệt ở một số thôn tỉ lệ này lên đến trên 50%.

Chị Mang Thị Sự, 25 tuổi, có hai con: một trai (6 tuổi) và một gái (3 tuổi). Hai bé đều vàng vọt, xanh xao vì kém ăn, suy dinh dưỡng. Mỗi lần đến bữa, chị Sự phải mất rất nhiều công sức dỗ con ăn mà các bé vẫn lắc đầu quầy quậy.

Chị Mang Thị Sự chuẩn bị bữa ăn cho gia đình

Theo MCNV, bên cạnh nguyên nhân điều kiện kinh tế eo hẹp, thì nhận thức về dinh dưỡng còn hạn chế của các hộ gia đình cũng góp phần dẫn đến tình trạng này. Ngay cả những hộ có khả năng tiếp cận với thực phẩm đầy đủ hơn, trẻ vẫn biếng ăn, suy dinh dưỡng, do chế độ ăn thiếu các vi chất cần thiết.

Thay đổi nhận thức

Từ tháng 6/2018, những lo lắng của chị Mang Thị Sự và các chị em trong xã Phú Mỡ bắt đầu được giải tỏa nhờ dự án “Nhân rộng các sáng kiến phòng chống suy dinh dưỡng dựa trên các giải pháp nông nghiệp tại khu vực miền núi Việt Nam và Lào” (gọi tắt là tiếp cận Dinh dưỡng – Nông nghiệp – Nutrition Sensitive Agriculture – NSA) do MCNV triển khai.

Tham gia dự án, lần đầu tiên chị Sự được học những kiến thức cơ bản về dinh dưỡng, biết cách vào bếp chế biến những món ăn ngon miệng, đủ chất cho trẻ mà vẫn vừa túi tiền.

Đơn giản như cùng một số tiền, chị Sự đã biết cách đa dạng hóa các nguyên liệu thực phẩm, chế biến những món dễ ăn, phù hợp với khẩu vị và hệ tiêu hóa của trẻ. Những món ăn trên mâm cơm vừa có màu sắc bắt mắt, vừa hợp khẩu vị trẻ, và quan trọng hơn là giàu dinh dưỡng.

Chị tâm sự, các bé nhà chị bây giờ, thay vì trốn tránh, sợ hãi những giờ ăn, thì hào hứng hẳn. “Món nào có màu sắc rực rỡ nó thích lắm. Bữa nào mà con ăn được  một chén, chén rưỡi là trong lòng mình vui lắm. Nó tự ăn xong nó tự đứng lên cân hỏi mẹ: “Mẹ ơi, con được mấy ký rồi?” người mẹ trẻ kể, mắt lấp lánh niềm vui.

Một người thay đổi rồi đến một nhóm, dần dần hình thành nhiều nhóm. Hàng tháng hoặc hàng tuần, các nhóm phụ nữ lại có một buổi họp mặt, chia sẻ về tình hình sức khỏe, dinh dưỡng của con cái, học hỏi những gương nuôi con khỏe, cập nhật những trường hợp cần theo dõi, chỉ cho nhau cách đi chợ, lên thực đơn, cách chế biến những món ăn bổ dưỡng, vừa túi tiền.

Giải “bài toán” dinh dưỡng

Giúp các hộ gia đình thay đổi nhận thức là một trong rất nhiều những hoạt động hỗ trợ giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng của dự án NSA. Các hoạt động được triển khai với sự tham gia chặt chẽ của bốn bên: y tế, nông nghiệp, giáo dục  và dịch vụ tư nhân.

Dưới sự phối hợp của đội ngũ cán bộ y tế địa phương, các hội thảo, tập huấn cấp huyện, xã và thôn bản được triển khai. Cán bộ y tế, các bà mẹ nhóm trưởng, giáo viên mầm non được tập huấn về dinh dưỡng, vệ sinh môi trường. Trẻ em được khám sức khỏe định kỳ, trẻ bị suy dinh dưỡng nặng được can thiệp điều trị.

Bên cạnh đó, các hộ gia đình được tập huấn tăng gia sản xuất, cải thiện dinh dưỡng từ chính mảnh vườn, thửa ruộng, khoảng sân nhà mình như nuôi gà đẻ trứng, trồng xen canh các loại rau, quả nhiều dinh dưỡng…

Để tăng thêm chất lượng bữa ăn của trẻ, dự án NSA cũng tài trợ cho các trường mầm non cung cấp bữa trưa, bữa sáng tại trường cũng như định hướng cho các thành phần kinh tế tư nhân (hàng ăn, tiệm tạp hóa) kinh doanh những sản phẩm dinh dưỡng như cháo dinh dưỡng, bánh, bột ngũ cốc, góp phần giúp các hộ gia đình tiếp cận với các sản phẩm dinh dưỡng một cách thuận lợi hơn.

Dự án NSA được MCNV triển khai tại huyện Đồng Xuân trong giai đoạn 2017-2020, với sự phối hợp của các đối tác là tổ chức phi chính phủ WOTRO, trường Đại học Vrije Amsterdam (Hà Lan); Đại học Nông Lâm Huế, Đại học Y Dược Huế.

Không chỉ giải quyết vấn đề dinh dưỡng cho trẻ em Việt Nam, dự án NSA còn hỗ trợ trẻ em Lào tại 10 thôn của huyện Nong – tỉnh Savannakhet. Hiện tại, phía Lào đã hoàn thành khảo sát ban đầu, được chia sẻ kiến thức và bộ công cụ khảo sát định lượng nghiên cứu, được tập huấn về phương pháp nghiên cứu, phân tích số liệu, xây dựng kế hoạch can thiệp và đã tổ chức một số hoạt động can thiệp bước đầu.

Dự án dinh dưỡng của MCNV là một nỗ lực hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển bền vững số 2 (SDG 2) của Liên hợp quốc về xóa đói, đảm bảo an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và phát triển nông nghiệp bền vững.

Phi Yến (Báo Thời đại)

Read more

Hợp tác và Xây dựng Mạng lưới Nâng cao Giáo dục và Dinh dưỡng

Bối cảnh

Cải thiện dinh dưỡng và an ninh lương thực tiếp tục là một ưu tiên trong hoạt động của MCNV tại Lào, đặc biệt là tại các khu vực có người dân tộc thiểu số sinh sống. Dinh dưỡng và an ninh lương thực liên hệ mật thiết với nhau và đòi hỏi các tiếp cận liên ngành như Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội quốc Gia của chính phủ Lào đã nêu rõ: “Dinh dưỡng là một trong những lĩnh vực đang đối mặt với những thách thức trong quá trình triển khai bởi nó liên quan chặt chẽ với nhiều lĩnh vực khác như an ninh lương thực, tiếp cận và tiêu dùng lương thực. Việc đối mặt với các vấn đề này đòi hỏi sự hợp tác hiệu quả và chia sẻ trách nhiệm giữ các cơ quan hữu quan như y tế, giáo dục, nông nghiệp, môi trường, công nghiệp và thương mại..v.v.”[1].

Hành động của MCNV

Tại Lào, gần đây MCNV đã bắt đầu chương trình “Hợp tác và Xây dựng Mạng lưới Nâng cao Giáo dục và Dinh dưỡng”, viết tắt là CANTEEN. Đây là một chương trình 4,5 năm (Từ 01/2017 – 06/2021) do EU tài trợ 75% ngân sách. Chương trình tập trung nâng cao năng lực cho các Tổ chức dân sự xã hội (CSO) và chính quyền địa phương (LA) để cùng hợp tác hướng đến các mục tiêu phát triển. Chương trình có 2 mục tiêu cụ thể như sau:

  1.  Xây dựng năng lực cho ít nhất 6 chính quyền địa phương, 1 tổ chức phi lợi nhuận  và 20 ban phát triển thôn để cùng họp tác và cung cấp các dịch vụ liên quan đến dinh dưỡng nhằm cải thiện an ninh lương thực, dinh dưỡng và đời sống cho hơn 6,000 người dân tộc thiểu số ở 20 thôn vùng sâu vùng xa ở huyện Nong, tỉnh Savannakhet.
  2. Tăng cường năng lực về đối thoại chính sách và tăng cường sự tham gia, sự minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các quan hệ đối tác đa ngành để khuyến khích nhân rộng các mô hình thành công và tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự trong tiến trình phát triển.

Ở chương trình CANTEEN, MCNV hợp tác chặt chẽ với CODA – một tổ chức phi lợi nhuận tại Lào và Sở Y tế Savannakhet để thúc đẩy làm việc hợp tác và tập thể giữa các cơ quan chính quyền địa phương và các tổ chức dựa vào cộng đồng ở huyện Nong nhằm cải thiện dinh dưỡng và an ninh lương thực ở cấp huyện và cấp thôn. Những kinh nghiệm và bài học rút ra từ công tác điều phối đa ngành này sẽ được chia sẻ với các đối tác liên quan ở cấp tỉnh và quốc gia là những người đang làm việc cùng nhau để cải thiện dinh dưỡng và an ninh lương thực ở Lào.

Các kết quả mong đợi

Trong 4,5 năm triển khai dự án, chương trình CANTEEN sẽ hỗ trợ hàng loạt hoạt động để đạt được các kết quả mong đợi sau:

Kết quả 1.1: Các bên tham gia như chính quyền địa phương, tổ chức dân sự xã hội, tổ chức dựa vào cộng đồng (CBO) được tăng cường năng lực để cung cấp các dịch vụ dinh dưỡng hiệu quả cho những nhóm người dễ bị tổn thương và bị gạt ra ngoài lề xã hội đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Hoạt động này cần tăng cường năng lực cho tổ chức và cán bộ của các LA và CSO. Các phương thức xây dựng năng lực cụ thể sẽ được thiết kế dựa trên các phân tích về các khoảng trống hiện tại và nhu cầu tương lai của mỗi tổ chức tham gia. Đối với 20 Ban phát triển thôn, chương trình sẽ sử dụng những nguồn tài trợ nhỏ để hỗ trợ họ cải thiện các kỹ năng bằng cách thực hành chu trình của những dự án thí điểm nhỏ.

Kết quả 1.2Giảm suy dinh dưỡng và mất an ninh lương thực ở các thôn thuộc dự án thông qua áp dụng cách tiếp cận hội tụ giữa các bên liên quan chủ chốt về y tế, nông nghiệp và giáo dục. Hoạt động này được thiết kế đặc biệt để minh chứng tính hiệu quả của cách tiếp cận này trong việc giảm các trường hợp suy dinh dưỡng và mất an ninh lương thực ở các thôn được lựa chọn. Điều này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm việc cùng nhau để đạt được kết quả cuối cùng. Tất cả những can thiệp đến cách ngành (như giáo dục, nông nghiệp và y tế) được thiết kế chú trọng đến dinh dưỡng và hướng đế tạo ra các bằng chứng về các cách làm giúp giảm thiểu mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng. Các cách tiếp cận được đề xuất này đã đề cập đến 14 trong 22 hoạt động ưu tiên được xác định trong Chiến lược dinh dưỡng quốc gia đến năm 2025 và Kế hoạch hành động 2016 – 2020 được thiết kế để giảm suy dinh dưỡng nhanh chóng và bền vững, chú trọng vào bình đẳng giới và quyền của phụ nữ và trẻ em gái.

Kế quả 2.1: Tăng cường tính hiệu quả cho môi trường thể chế của các CSO và LA với mạng lưới mạnh hơn để có khả năng vận động cho các cách tiếp cận bền vững sử dụng các bằng chứng từ can thiệp của dự án. Điều này cho thấy cách tiếp cận bền vững và được nhân rộng ở huyện Nong, sử dụng các bằng chứng đã có để biện luận cho việc nhân rộng, sửa đổi ở các khu vực khác tại Lào. Chương trình sẽ tăng cường các liên kết với các mạng lưới dân sự xã hội như Liên minh tăng cường dinh dưỡng. Hoạt động này sẽ gia tăng giá trị cho các kế hoạch của chính phủ Lào khi họ đang mở rộng các cách tiếp cận hội tụ ở các tỉnh khác, gồm cả tỉnh Savannakhet và sẽ tìm kiếm bằng chứng và hỗ trợ việc triển khai và mở rộng hiệu quả.

[1] Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội quôc gia 5 năm 2016 – 2020: phần 1: thành tựu và các bài học kinh nghiệm, Lào.

Read more

Ứng dụng các phương pháp truyền thông sáng tạo (LICM)

Bối cảnh

Các nhóm yếu thế và bị phân biệt đối xử như người khuyết tật, người già, người có khuynh hướng tình dục khác và người có H thường e ngại, sống tự tách biệt và cảm thấy xấu hổ hoặc thường xuyên tự vấn bản thân.

Hành động của MCNV

Để hỗ trợ những nhóm yếu thế vượt qua sự e ngại và khuyến khích họ tham gia đối thoại với cộng đồng, MCNV đã thử nghiệm nhiều với việc sử dụng các phương pháp truyền thông sáng tạo. MCV sử dụng khái niệm “phương pháp truyền thông sáng tạo” để chỉ các cách thức sáng tạo và thú vị trong truyền thông ví dụ như sân khấu dựa vào cộng đồng, kịch bóng mờ, kể chuyện, ca hát, nhảy múa và làm phim có sự tham gia.

Những kinh nghiệm thành công của MCNV khiến chúng tôi quyết định mở rộng việc ứng dụng các phương pháp truyền thông sáng tạo đến những lĩnh vực khác như nâng cao năng lực về các vấn đề sức khỏe, vận động chính sách trong việc thu nhặt rác thải và sức khỏe sinh sản và tình dục. Các phương pháp truyền thông sáng tạo mà MCNV hỗ trợ sử dụng ở Việt Nam bao gồm các tiếp cận dựa vào sân khấu, múa rối, làm phim có sự tham gia, nhảy múa và hát dân ca.

 

Các thành tựu đạt được

Việc sử dụng các hình thức nghệ thuật đã cải thiện vị thế xã hội của cả Hội Y tế thôn bản và các tổ chức dựa vào cộng đồng. Bên cạnh đó, thành viên Hội y tế thôn bản và các tổ chức cộng đồng trở nên tự tin hơn trong việc sử dụng các loại hình nghệ thuật và it e ngại trong nói chuyện trước đám đông. Trong năm 2015, Hội người khuyết tật và Hội người cao tuổi ở các khu vực dân tộc thiểu số của tỉnh Quảng Trị đã vận động được 750 triệu đồng từ các cộng đồng thông qua các chiến dịch và các sự kiện cộng đồng. Tại các sự kiện này họ đã biểu diễn kịch và các tiết mục văn nghệ. Số tiền này sẽ được sử dụng để duy trì các hoạt động phát triển cộng đồng. Các phương pháp truyền thông sáng tạo cũng chứng tỏ là đã có những đóng góp tích cực trong việc vận động chính sách. Ví dụ như vào năm 2014, Hội người cao tuổi tỉnh Quảng Trị đã vận động thành công cho việc tăng ngân sách của cấp huyện dành cho sức khỏe người cao tuổi bằng cách tổ chức các sự kiện vận động và sử dụng truyền thông sáng tạo.

Kế hoạch tương lai

Gần đây, MCNV đã nhận được nguồn tài trợ từ tổ chức Oxfam Novib và HIVOS để thử nghiệm các phương pháp truyền thông sáng tạo tại Lào. MCNV sẽ hỗ trợ ba nhóm thanh niên dễ bị tổn thương là thanh niên khuyết tật, người song tính, đồng tính và chuyển giới và trẻ em gái làm việc tại các nhà máy dệt ở Lào trong việc sử dụng truyền thông sáng tạo để nâng cao năng lực cho các bạn trẻ và để vận động chính sách. Dự án này tạo điều kiện để MCNV có thể nhân rộng kinh nghiệm của mình và phát huy tác dụng của phương pháp này hơn nữa.

Read more

Thúc đẩy hòa nhập của thanh niên khuyết tật về Quyền Sức khỏe Sinh sản và Tình dục (SKSSTD)  

Dự án Phương pháp Truyền thông Sáng tạo (LICM) do MCNV thực hiện tại Lào là một phần của chương trình lớn về hòa nhập có tên VOICE; Để biết rõ hơn thông tin về chương trình, vui lòng truy cập website www.voiceglobal.org

LICM giới thiệu các phương pháp truyền thông sáng tạo, trong đó có kịch (bóng mờ), âm nhạc, hoạt hình… như một hình thức thực hành hội thoại giữa các nhóm thanh niên dễ bị tổn thương về Quyền Sức khỏe Sinh sản và Tình dục (SKSSTD), và giữa các nhóm thanh niên với người có ảnh hưởng và các nhóm khác trong xã hội.

Một khởi đầu tốt đẹp được bắt đầu từ đầu tháng 6 với lớp tập huấn về sáng tạo diễn ra tại Savannakhet. Tập huấn do MCNV phối hợp với Hội Người khuyết tật Lào tổ chức. Bảy thôn với tổng cộng 22 tham dự viên đã tham dự và xây dựng lên ba câu chuyện ấn tượng sâu sắc. Trong số 22 tham dự viên có 17 thành niên khuyết tật và năm trẻ em gái tuổi vị thành niên, tất cả trong độ tuổi từ 14 đến 24. Như vậy có 12 nam và 12 nữ thanh niên tham dự buổi tập huấn.

Mục đích của tập huấn là mở ra một cuộc hội thoại về quyền tình dục của giới trẻ và trẻ em gái vị thành niên giữa các em với nhau và với người dân cộng đồng. Trong buổi làm việc vào tháng 5/2017, các vấn đề chính mà thành thiếu niên muốn trao đổi gồm có:

  • Phân biệt đối xử ảnh hưởng đến đời sống gia đình của thanh niên khuyết tật;
  • Trẻ em gái vị thành niên có các vấn đề về sức khỏe sinh sản và tình dục (SKSSTD) do thiếu kiến thức và kỹ năng về SKSSTD;

Ba câu chuyện do ba nhóm tham dự viên xây dựng và phát triển. Vào lúc bắt đầu tập huấn, các nhóm còn e dè, khép kín, nhưng dần dần các bạn sẽ vượt qua mọi bỡ ngỡ lúc ban đầu để tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận. Ba nhóm đã phát triển ba sản phẩm truyền thông sáng tạo khác nhau: kịch hội thoại, kịch bóng mờ và video có sự tham gia.

Câu chuyện do một nhóm thanh niên khuyết tật phát triển với nội dung xoay quanh chuyện một nam thanh niên khuyết tật đem lòng yêu một cô gái không khuyết tật. Sau một thời gian, anh quyết định cầu hôn cô. Đôi bạn trẻ quyết định xin phép gia đình hai họ. Mặc dù cha mẹ cô gái rất quý mến chàng trai, họ vẫn từ chối anh do lo sợ rằng nếu con rể họ khuyết tật thì các cháu của họ sau này sinh ra cũng khuyết tật. Chàng trai và cô gái rất đau buồn. Bạn bè của đôi bạn trẻ đã vào cuộc, khuyên họ nên nhờ các bác sĩ đến gặp cha mẹ cô gái và đưa lời khuyện. Sau đó bấc sĩ đến gặp cha mẹ cô, giải thích rõ ràng rằng khuyết tật không phải là di truyền. Sau buổi tham vấn với bác sĩ, cha mẹ cô gái cho phép hai người làm đám cưới. Câu chuyện đã mang đến một kết thúc có hậu: một đám cưới vui vẻ, hạnh phúc đã được diễn ra!

Câu chuyện được kể dưới hình thức kich bóng mờ tại: //drive.google.com/drive/folders/0B4Isr8JKRCreUnhBVldpODhIY00

Thông điệp chính mà câu chuyện muốn truyền tải: Do nhận thức còn chưa đầy đủ mà công đồng đã tạo ra nhiều kỳ thị với người khuyết tật, khiến họ gặp khó khăn trong cuộc sống thường nhật tại cộng đồng. Hãy mở lòng mình, nhìn vào những khả năng của họ và hỗ trợ trong trong các mối quan hệ yêu thương. Cần cải thiện các dịch vụ tư vấn cho người khuyết tật, gia đình và cộng đồng nơi họ sinh sống về Quyền SKSSTD.

Một sự kiện truyền thông đã được tổ chức tại thôn Phonsim, cách Kayson 18km, với sự tham gia của khoảng 40 người dân trong làng thuộc đủ lứa tuổi. Người dân đã háo hức đến xem phim của thể loại kịch bóng mờ.

Sau khi vở kịch được trình chiếu, một cán bộ chương trình của Hội Người khuyết tật Lào tại Savannakhet đã đặt ra các câu hỏi xung quanh câu chuyện và đề nghị mọi người chia sẻ các quan điểm của mình về các khía cạnh cụ thể của câu chuyện. Khán giả đã rất thích thú và tham gia nhiệt tình vào quá trình đặt câu hỏi và thảo luận. Các tham dự viên tại sự kiện đều đồng ý rằng tư vấn cho thanh niên nói chung và thanh niên khuyết tật nói riêng cần phải được tiến hành thường xuyên liên tục hơn nữa.

Một đánh giá ngắn về tập huấn sáng tạo và sự kiện truyền thông đã đúc rút ra các ý chính sau đây từ tham dự viên:

  1. Kịch bóng mờ là hình thức truyền thông được tham dự viên yêu thích nhất.
  2. Thanh niên đặc biệt ấn tượng về sự kiện truyền thông. Đây là lần đầu tiên họ có cơ hội tham gia đóng kịch trước đông đảo khán giả. Dù ban đầu nhiều người có hồi hộp, lo lắng, nhưng tất cả đã vượt qua bỡ ngỡ ban đầu để hoàn toàn nhập tâm vào vai diễn.

“Trong lúc tập huấn chúng tôi làm không tốt lắm, nhưng thật kỳ lạ, khi đứng trước đông đảo khán giả, chúng tôi đã làm tốt hơn rất nhiều. Ví dụ như, một người trong số chúng tôi đã bật khóc. Cô đã không thể làm được điều ấy khi thực hành trên lớp.”

“Chúng tôi cảm thất rất vui khi thấy mọi người thích thú xem mình diễn, sau đó còn đặt ra nhiều câu hỏi.”

“Chúng tôi đã cho thấy rằng người khuyết tật cũng có thể làm được việc này giống như người không khuyết tật.”

Dự án Phương pháp Truyền thông Sáng tạo (LICM) đã chia sẻ kịch bóng mờ và video vào cuối tháng 6/2017 với nhóm lớn các bên liên quan, trong đó có Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Sở Lao động – Xã hội, Sở Y tế và Trường Cao đẳng Khoa học Y tế để vận động cho việc bồi dưỡng kiến thức về chia sẻ và tư vấn về SKSKTD.

Read more

Hỗ trợ người nghèo làm kinh tế

Bối cảnh

Việc làm ăn kinh tế liên quan đến kỹ năng lãnh đạo, sự sáng tạo, tầm nhìn cũng như khả năng khai thác các cơ hội. Rất nhiều các chương trình đã cho thấy những tác động tích cực của việc làm kinh tế đối với người nghèo và người bị lề hóa. Khi họ biết làm ăn và có thu nhập tốt, họ cảm thấy được tôn trọng. Họ cảm thấy tự vào và mong muốn đóng góp cho gia đình và cộng đồng. MCNV đã phát triển các hình thức Quỹ phát triển do cộng đồng quản lý kết hợp với các tập huấn về làm kinh tế và kiến thức về tài chính đã giúp hàng nghìn người cái thiện cuộc sống. MCNV có kế hoạch tăng cường các hoạt động hỗ trợ người nghèo làm kinh tế, đặc biệt là ở Việt Nam.

Hành động của MCNV

Nền kinh tế thị trường đã mang đến cơ hội thoát nghèo cho một số người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Tuy nhiên, nhiều người trong họ phải đối mặt với những rào cản về khả năng tiếp cận, thiếu năng lực cần thiết hoặc không nhận ra rằng họ đang có những cơ hội. Vì lý do này, MCNV đã nghiên cứu cơ chế hoạt động của thị trường địa phương và xác định những rào cản và tác nhân đối với khả năng tiếp cận của những nhóm bị lề hoá. Cách thức làm việc với những hệ thống thị trường sẽ thay đổi ở những chương trình và dự án khác nhau với các mức độ phát triển khác nhau.

Hầu hết tất cả các nhóm dân tộc thiểu số trước đây phụ thuộc vào nền nông nghiệp tự cung tự cấp đã tiếp cận với “thị trường” nhiều hơn. Đầu tiên, những thương lái tìm đến các nhóm thiểu số thông qua những con đường mới được mở ra vì mục đích phát triển để mua những nông phẩm ngay trên thửa ruộng của họ. Nhưng sau đó, những thương lái này đã mở ra những cửa hàng ngay chính ở cộng đồng của những người nông dân, sử dụng chính kiến thức và mạng lưới của họ để trở thành nhân vật trung gian giữa người sản xuất địa phương và thị trường bên ngoài. Ảnh hưởng của những thương lái này rất là đa dạng: một mặt họ giúp những nông dân nghèo tạo ra những nguồn thu nhập mới, những mùa vụ mới và kiến thức nông nghiệp. Tuy nhiên, về mặt khác, họ thu lợi được trong việc nông dân phụ thuộc vào họ, ví dụ như thông qua những cái bẫy nợ nần để bảo vệ sự độc quyền của họ ở địa phương. Ở dự án Phát triển Sức khoẻ và Đời sống do Cộng đồng Quản lý tại tỉnh Khánh Hoà (2004 – 2016), MCNV đã làm việc với những cộng đồng dân tộc thiểu số để giúp họ nâng cao nguyện vọng, sự tự tin và kiến thức của mình để dần dần giảm sự phụ thuộc của họ vào những người trung gian cũng như vào chính quyền địa phương.

Ở tỉnh Bến Tre, MCNV phối hợp với Hội Phụ nữ thực hiện các dự án tài chính vi mô để giảm nghèo cho phụ nữ nghèo, giúp họ học cách tiết kiệm và biết đầu tư làm kinh tế hiệu quả. Ở chương trình này, với sự quản lý của Liên hiệp phụ nữ tỉnh Bến Tre, những nhóm phụ nữ nghèo học tiết kiệm và đầu tư để tạo lập và phát triển những doanh nghiệp nhỏ. Những nhóm đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội thường không được “giáo dục tài chính” cơ bản. Vì vậy, MCNV giúp xây dựng năng lực thông qua tổ chức đại diện cho họ, chẳng hạn như giúp các hội người khuyết tật biết cách duy trì và phát triển các quỹ quay vòng để hỗ trợ cho hội viên.

Kế hoạch tương lai

Chúng tôi nhận thấy vẫn cần rất nhiều can thiệp khác để giúp người nghèo tiếp cận và tham gia vào thị trường. Phần lớn nông dân ở Việt Nam không thiếu khả năng làm kinh tế hay thiếu ‘giáo dục tài chính’, và họ thường không được tổ chức và kết nối tốt. Điều này làm giảm đáng kể sức ảnh hưởng và ‘chuỗi giá trị’ các sản phẩm của họ. Ở tỉnh Quảng Trị, hiện nay MCNV đang trong quá trình xây dựng quan hệ đối tác với các hợp tác xã và các nhóm sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian tới, MCNV dự định gắn những sáng kiến này với các tổ nhóm nông dân, đồng thời tăng cường phát triển chuỗi giá trị sản phẩm khu vực biên giới Việt – Lào.

Read more

Làm kinh tế và chuỗi giá trị

Bối cảnh

Nền kinh tế thị trường đã mang đến cơ hội thoát nghèo cho một số người bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Read more